Thursday, April 29, 2010

GỬI HƯƠNG LINH TỬ SĨ KHỐI TÌNH CHUNG


Buổi tàn xuân gửi đôi dòng tưởng tiếc
Thay hương lòng thắp muộn chốn viễn phương
Tôi: lưu vong, đang lữ thứ dặm trường
Bạn: miên viễn, ngày đêm ôm đất Mẹ.

Lửa tim hồng của một một thời son trẻ
Vẫn bừng bừng dẫu bóng xế thời gian
Trải hy vọng nối nửa vòng trái đất
Gom ánh quang chiếu rạng lối quay về.

Gảy gánh tang bồng, tan mùa cung kiếm
Mang nỗi nhục thân suốt kiếp đọa đày
Tôi ở phương này xa xôi trời biển
Nhớ bạn, thương quê, buồn đọng mắt cay.

Bạn nghìn thu ôm màu Cờ, sắc Áo
Hiển linh trong hùng sử rất liệt oanh
Tôi còn mãi bôn ba trong mưa bão
Của phù vân và hiện thực mong manh.

Cánh thiên di còn nặng mang thề hứa
Suốt đời còn nặng nợ với sơn khê
Lời tâm nguyện từ dạo còn khói lửa
Nay thành câu hoài vọng lúc nhớ quê!

Những trăn trở mang dấu hằn thương tích
Chập chùng theo bóng sắc buổi tà huy
Nhớ bạn xưa, nhớ quá lúc xuân thì!
Đành treo chén quan san trong...nhật ký!

Tôi: một mảnh đời trôi ngoài vạn lý
Bạn: thiên thu hòa tiếng gọi muôn trùng
Nâng một cánh hoa lòng màu chung thủy
Gửi hương linh TỬ SĨ khối tình chung.

HUY VĂN
(Để nhớ toàn thể anh linh Tử Sĩ một thời là Đồng Đội và Chiến Hữu BĐQ của tôi hiện còn an nghỉ đâu đó trên quê hương và trong vùng đất mang tên " Thương Tiếc " )

Tuesday, April 27, 2010

Tháng Tư ... gãy súng


Anh chưa hề thua trận
Anh chưa hề rơi gươm
Tháng Tư, anh gãy súng
Bỏ cuộc trong hờn căm.

Cuộc chơi đầy gian lận,
Tàn nhẫn và đau thương
Cuộc chơi đầy nước mắt
Nước mắt tràn quê hương

Cuộc chơi nhiều phản trắc
Đồng minh cũng bỏ rơi
Cuộc chơi đầy chết chóc
Chiến trường, anh lẻ loi

Tháng tư, anh gãy súng
Bóng tối ngập quê nhà
Hòa bình cho tan nát
Thống nhất tạo chia xa

Tháng tư, anh gãy súng
Miền Nam buồn xác xơ
Đổi đời, dân than khóc
Lầm than trên quê xưa

Bạn bè dăm bảy đứa
Lác đác tìm tin nhau
Coi ai còn, ai mất
Giữa cuộc đời hư hao

Tháng tư buồn da diết
Tháng tư, người mất nhau
Ngày tháng tư thật chậm
Đếm thời gian, lòng đau

Anh vẫn là hào kiệt
Hy sinh cho quê hương
Dù mang thân ngã ngựa
Anh vẫn còn tâm hồn !!!

Lê Văn Thắng (4/2010)

Saturday, April 17, 2010

CHUYỆN "NGỤY QUÂN NGỤY QUYỀN"


Nhớ hồi em học lớp hai
Cô cho bài toán nhớ hoài không quên
Tóan rằng lính "Ngụy" mười tên
Giết ba còn mấy thưa liền cô nghe
Chiều tan học em về hỏi má :
-- ""Cách mạng" gì ác quá má ơi!
Sát nhân đâu phải chuyện chơi
Con không thích toán giết người nầy đâu !"
Má âu yếm vuốt đầu con trẻ
Con ngoan ơi nhớ nhé đừng quên:
-- "Học trò kính dưới nhường trên
Học câu lễ nghĩa chớ nên học thù !"

Cha nhỏ bạn đi tù "cải tạo "
Mẹ ở nhà không gạo nuôi con
Nhỏ thôi cấp sách đến trường
Làm con của "Ngụy" trăm đường đắng cay!
"Ngụy" là gì em hay thắc mắc
Cô bảo rằng: "Là giặc hại dân
"Ngụy Quyền" với lại "Ngụy Quân"
Là phường bán nước buôn dân đấy mà!"

Nay khôn lớn em đà hiểu thấu
Ngụy chính là thảo khấu cường đồ
Chúng từ miền Bắc tràn vô
Mang tăng (tanks) Sô Viết dày mồ cha ông
Ngụy là bọn Minh, Đồng, Chinh, Duẩn
Dân không bầu chúng vẫn tiếm ngôi
An thân nhược tiểu, bầy tôi
Bái chầu trung cộng làm bồi nga sô
Ngụy là bọn tam vô độc ác
Ngụy là đồ thờ “bác” chém cha
Ngụy là Phiêu, Khải gian tà
Là Mạnh là Dũng, qủy ma hiện hình
Ngụy đem buôn dân mình khắp xứ
Buôn đàn bà, phụ nữ trẻ thơ …
Đài Loan, Hương Cảng bơ vơ
Nhớ về cố quận lệ mờ mắt cay !
Ngụy là lũ độc tài độc đảng
Là gian phường cộng sản tham lam
Dám đem Bản Giốc, Nam Quan
Bán cho tàu cộng cầu an cầu hoà

Công dân hỡi, QUỐC GIA lâm nạn
Hãy vùng lên diệt đám ngụy quyền
Diệt phường bán đất tổ tiên
Quyết tâm khôi phục hải biên, sơn hà !
Hương Sài-Gòn

Sunday, April 4, 2010

Mua Chim

Ngày xưa, khi chưa có cây cầu Mỹ Thuận, khách bộ hành muốn qua sông chỉ có cách duy nhất là qua phà Mỹ Thuận. Nay bến phà với bao nỗi thăng trầm không còn nữa, cây cầu đã sừng sững mọc lên nối những bờ vui. Nhớ lại bến phà cũ, hẳn nhiều người còn nhớ hình ảnh những người bán hàng rong ở hai bên bờ sông ngày nào. Đặc biệt là hình ảnh các cô gái bán chim ( tất nhiên, là… thực phẩm) với lời mời ngọt ngào: “ăn chim em đi anh”. Bài thơ về các cô gái bán chim thời đó:


Đi qua bắc Mỹ Thuận
Nhộn nhịp khách lữ hành
Cô em mời đon đả
“Ăn chim em đi anh”

Nè, chim em mập lắm
Nè chim em ít lông
Chim em vừa mới lớn
Anh, ăn chim em không

Chim em toàn những nạc
Chim em chẳng có xương
Anh sờ đi: toàn thịt
Lại to hơn chim thường


“Ừ, chim em bự lắm
Nhưng anh cũng… có rồi
Anh dừng lại xem thôi
Để anh đi, em nhé “

Xe chuyển bánh nhè nhẹ
Cô em còn ghé theo
Chim em, chim rất nhiều
Lần sau anh mua nhé

Nay qua sông Mỹ Thuận
Gặp cây cầu ước mơ
Thương cô em mười tám
Biết tìm đâu bây giờ?…

Saturday, April 3, 2010

NHỮNG NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA.


Năm xưa chồng tôi là người lính,
Nơi vùng lửa đạn,
Mồ hôi anh đã đổ,
Từ Hố Bò Bình Dương, Bình Long,
Đến Thừa Thiên, Quảng Trị.
Rồi một ngày anh gục ngã,
Tại chiến trường Tây Ninh.

Tôi góa phụ xuân xanh,
Con thơ chưa tròn tuổi,
Tiễn đưa anh lần cuối,
Về nghĩa trang quân đọi Biên Hòa

Đã bao nhiêu năm qua,....
Bây giờ,
Tôi ở nơi xa,
Đã có cuộc đời khác.
Nhưng đôi lúc nghĩ đến anh tôi vẫn khóc,
Thương tiếc xa xăm.

Tôi về tìm mộ bia anh giữa chập chùng cỏ dại cây hoang,
Để thắp một nén nhang,
Nhớ người lính của một thời chinh chiến,
Nhớ người chồng của một thuở gối chăn.

Năm xưa chồng tôi là người lính,
Một lần hành quân,
Anh đã bị thương,
Máu anh loang ướt vạt cỏ ven đường.
Ôi, mảnh đất không tên,
Đã giữ chút máu xương người lính trẻ.

Đã bao nhiêu năm qua,
Bây giờ,
Anh thương binh tàn tạ.
Sống trên quê hương đôi khi vẫn thấy mình xa lạ,
Bạn bè anh,
Kẻ mất người còn,
Kẻ quên người nhớ,
Kẻ vô tình giữa dòng đời vất vả.

Năm xưa chồng tôi là người lính,
Nồng nhiệt tuổi đôi mươi,
Lần đầu tiên ra chiến trường,
Anh mất tích không tìm thấy xác.
Mẹ anh khóc cạn khô dòng nước mắt,
Lòng tôi nát tan.

Đã bao nhiêu năm,
Vẫn không có tin anh,
Anh ơi, dù quê hương mình đã hết chiến tranh,
Tàn cơn khói lửa,
Nhưng không phải là một quê hương như anh ước mơ.
Anh đã biết chưa?


Hỡi người tử sĩ không tên không một nấm mồ.!!!
Năm xưa chồng tôi là người lính,
Sống sót trở về sau cuộc đao binh,
Sau những tháng năm tù tội,
Bây giờ anh không còn trẻ nữa.
Lìa xa quê hương,
Sống ở xứ người.
Những năm thánh chinh chiến đã đi qua,
Nhưng vết thương đời còn ở lại,
Trong lòng anh,
Trong lòng những người lính năm xưa.

Nguyễn Thị Thanh Dương

Vọng Cố Hương

Ngồi một cõi nhớ về mùa trăng cũ
Lòng bâng khuâng nghe gió lạnh muôn trùng
Trời xa vắng, bàng hoàng hoa héo nụ
Để vu vơ gom lại nỗi mông lung.

Một mùa thương đổ về trên nắng úa
Rừng nghiêng cây, trút lá, lạnh sương giăng
Chiêm bao thấy lối về mờ khói lửa
Cho trời mây buồn mấy nẻo cách ngăn.


Trên cánh gió ai nhắn lời trầm vọng
Để lòng đau thương hận của một thời
Tiếng ai đó, hay lời mây, tiếng gió
Dội vào tim như giông bão trùng khơi.


Có khoảng trống trong màn đêm vũ trụ
Gom không gian vào huyền hoặc hư không
35 năm còn đứng ngậm ngùi trông
Thuyền viễn xứ ra khơi theo định mệnh.


Vẫn trôi mãi dòng đời không bãi, bến
Thời hoa niên đã nặng gánh quan san
Nay bạc đầu vẫn phiền lụy đa mang
Dây cương lỏng, ngựa chồn chân. Rời rã!


Một cuộc sống chia đời qua hai ngả
Mộng xa vời, thực tại lắm bến mê
Một ước mơ chia trăm hướng đi, về
Nên thiên lý cũng bạc màu sương khói.


Nơi quan tái mơ hồ sông núi gọi
Lạnh sơn khê nên đắng cả hồ trường
Đành như lũ côn trùng chờ đêm tối
Để mỏi mòn cất tiếng vọng cố hương.


Huy Văn

Trận chiến cuối cùng

[Thân tặng các chiến hửu CĐ 2 TĐ 15 LĐ III KB]

Tôi muốn viết những bài thơ đời lính
Kể chuyện buồn ngày vượt suối lên non
Những bửa cơm dưa muối nuốt không ngon
Cơn mưa lũ đầu mùa nghe ướt mặt
Tôi vẫn nhớ những đêm dài thức giấc
Nghe đạn thù cày nát lổ châu mai
Ánh hỏa châu soi sáng bóng đêm dài
Tiếng xích sắt rền vang trong đêm vắng
Tôi không quên ngày Tây Ninh cháy nắng
Về Trị Tâm bụi đỏ lá cây rừng
Có đoàn người di tản ganh còng lưng
Họ lìa bỏ nơi chôn nhau , cắt rún
Tôi đã nghe tiếng pháo thù vỡ vụn
Chiều Khiêm Hanh trận địa chiến kinh hồn
Bạn bè tôi nấm mộ mới vừa chôn
Hàng nến đỏ lập lòe như máu đổ
Tôi đóng quân một chiều bên quốc lộ
Từ Trảng Bom đường về tới Dầu Giây
Nghe tiếng bom và đạn pháo rơi đầy
Nhìn vết xích cày lên đường sỏi đá
Tôi đi qua trường Long Thành không lạ
Với con đường về ngả ba Thái Lan
Đến Phước Tuy đêm xuống ngủ vội vàng
Trời rựng sáng quân thù chờ đối mặt
Tôi băng ngang cầu Cỏ May nắng tắt
Đêm đã về súng thù vọng cuối đường
Phá sập cầu ngăn chận lũ Bắc phương
Như thú dữ săn mồi trong đêm tối
Tôi cúi mặt khóc thương người đồng đội
Đã hi sinh trên đường về Vũng Tàu
Thiết vận xa bốc cháy xác còn đâu
Người còn sống đội pháo về Bến Đá
Tôi nhớ mãi trên chiếc thuyền đánh cá
Đồng đội tôi những người lính Kỵ Binh
Rời quê hương vào một cuộc hành trình
Xa đất mẹ không hẹn ngày trở lại
Tôi muốn viết bài thơ trong ái ngại
Ba mươi lăm năm nổi nhớ không rời
Tháng Tư đen buồn vong quốc người ơi
Trên xứ lạ những tháng ngày quay quắt .

Thiên Chương [khóa 8/72] CĐ 2/15 TK

Friday, April 2, 2010

Chuyện đời tôi .

Ba tôi vào quân đội Pháp
Trước ngày đất nước chia đôi
Mẹ đưa tôi về quê nội
Lìa xa quê ngoại bồi hồi

Ngày tôi vừa lên mười tuổi
Nội buồn sớm tối lo âu
Việt Minh từng đêm đấu tố
Giết người địa chủ sang giàu

Mẹ đưa tôi về quê ngoại
Cũng dòng sông nước Vu Gia
Vội vàng chợ chiều Ái Nghỉa
Qua sông cho kịp chuyến phà

Ba tôi vào trường Đồng Đế
Khóa sinh khóa Tám Sáu Hai [8/62]
Pháo binh ra trường Dục Mỹ
Rồi về căn cứ Phú Bài

Ngày tôi lên hai mươi tuổi
Mùa hè đỏ lửa tràn về
Giặc thù vượt sông Bến Hải
Ba về trấn đóng Thanh Khê

Tôi vào quân trường Đồng Đế
Khóa sinh khóa Tám Bảy Hai [8/72]
Long Thành bụi mờ Thiết Giáp
Vùng Ba chiến thuật miệt mài

Cha con tình sâu nghỉa nặng
Ba lo trấn thủ tuyến đầu
Con xa phố phường Đà Nẵng
Tây Ninh , Hậu Nghỉa dãi dầu

Tháng Tư nhớ ngày quốc hận
Thư buồn con gởi cho ba
Chiến tranh qua hai thế hệ
Bảo tồn một giải sơn hà

Những chiều về trên xứ lạ
Cô đơn làm kẻ xa nhà
Tôi buồn bao lần bật khóc
Những ngày không mẹ , vắng cha

Thiên Chương khóa 8/72
Chi Đoàn 2/15 TK