Friday, January 29, 2010

Hãy Để Bố


DẠO: Lòng không muốn sống xa nhà
Nhưng trời bắt tội tuổi già biết sao!


(Kính mến gửi về Chú, ngậm-ngùi đánh dấu ngày mà Chú, vừa tới tuổi 90, phải vào nhà dưỡng-lão, mặc dù con gái Chú rất thiết-tha muốn được đưa Chú về nhà.)

Đêm bệnh-viện, sầu tơi trên tóc trắng,
Người già nằm, bóng hạc lắng chiều sương,
Mắt ngu ngơ như nắng lỡ độ đường,
Nhìn con gái dựa bên giường gà gật.

Đầu ngật ngầy váng vất,
Thương con mình tất bật ngược xuôi,
Mấy ngày qua luôn túc-trực không rời,
Đến tối mịt mới về nơi tổ ấm.

Bàn tay già chầm chậm,
Thờ thẩn nắm tay con.
Từ rãnh mắt xoáy mòn,
Giọt thương cảm lăn tròn theo vết cũ.

Khuya rồi đó, sao con chưa về ngủ,
Chuyện tuổi già, con ủ-rũ làm chi.
Chín mươi rồi, Bố chưa bị cất đi,
Mình may mắn, có gì mà áo-não.

Hãy để Bố vào ở nhà dưỡng lão,
Như mọi người vừa khuyên bảo sáng nay,
Vì một mai khi rời khỏi nơi đây,
Khó khăn sẽ theo tháng ngày dai dẳng.

Bố không muốn mình trở thành gánh nặng,
Để cho con phải lo lắng miệt mài
Đời con còn nhiều trách-nhiệm trên vai,
Đâu có thể chực-chầu hoài sớm tối.

Thân gầy còm yếu đuối,
Sao kham nổi đường xa.
Thêm việc sở, việc nhà,
Chuyện con cái, dễ gì mà vất bỏ.

Người già thường cau-có
Nằm liệt giường, càng khó tính gấp trăm.
Dù cho con chẳng quản ngại nhọc nhằn,
Nhưng chịu đựng tháng năm dài sao thấu.

Bố vẫn muốn sống đời bên con cháu,
Dẫu cơ-hàn, mà rau cháo có nhau.
Bao năm qua mất Mẹ , bấy năm sầu,
Bố gượng sống với niềm đau-lẻ-bạn.

Buồn nhớ lại ngày vượt biên hoạn-nạn,
Bỏ quê nhà, chấp-nhận vạn gian-truân,
Chết trong tay đã nắm chặt chín phần.
Mạng sống chỉ ngàn cân treo sợi nhỏ.

Con thuyền khốn khổ,
Sóng gió tả-tơi,
Phút chót đã kề nơi,
Lối định-mệnh, ai người sống sót.

Tưởng chỉ được nhìn Mẹ, con lần chót,
Nhưng Trời thương cho trót-lọt qua đây,
Trong khi bao người biển cả vùi thây,
Giờ sao nữa, chẳng mảy-may tiếc rẻ.

Bố chỉ hận mình không còn sức khỏe,
Đở đần con việc lẻ-tẻ hôm mai,
Để chiều về, con bớt phải loay-hoay,
Được yên nghỉ sau ngày dài kiệt sức.

Khi bị đẩy vào trong phòng hồi-lực,
Bố biết mình gần tới lúc xuôi tay.
Dù thoát nạn hôm nay,
Đời cũng phải rẽ ngay vào lối ngoặc..

Bố tự biết như ngọn đèn sắp tắt,
Nên cố tình bẳn gắt mấy ngày qua.
Nếu chẳng may phải theo gót ông bà,
Con cũng đở xót xa giờ đưa tiễn.

Mai kia rời bệnh-viện,
Con đừng bịn-rịn xót xa,
Hãy nghe lời y-tá dặn ngày qua,
Mà đưa Bố thẳng ra nhà dưỡng lão.

Cuộc sống mới dù là mưa hay bão,
Bố không buồn,tự bảo vẫn còn may,
Vì biết rằng, chỉ quanh-quẩn đâu đây,
Con cháu Bố đang vui vầy hạnh-phúc.

Rồi sẽ có những buổi chiều hun-hút,
Bố nặn dần từng phút ngóng người thân.
Nhưng rủi con chẳng tới được một lần,
Bố cũng hiểu, đừng bận tâm ray-rứt.

Bố không ngại chặng cuối đời khổ cực,
Nhìn thấy con hạnh-phúc, Bố vui lòng.
Tuổi đã nhiều, phận Bố thế là xong,
Con phải sống cho chồng, cho con cái.

Hứa với Bố, con sẽ không buồn mãi,
Nếu mai này, khi Bố phải ra đi,
Mà con không kịp đến lúc phân-kỳ,
Nói cùng Bố lời chia-ly vĩnh-viễn.

Đêm trơn giấc, người con rời bệnh-viện,
Đôi mắt già quyến-luyến vọng đưa chân.
Trong ký-ức phai dần,
Khuôn mặt những người thân vùng hiển-hiện.

Lòng chợt thoáng bùi-ngùi khi nghĩ đến
Phút lên đường, theo ước-nguyện ba-sinh,
Chân bơ-vơ trong tăm tối một mình,
Mò mẫm lối hành-trình về thiên-cổ.

TRẦN VĂN LƯƠNG

Xuân Trên Phố Sàigòn


Sàigòn vẫn thân quen từng góc phố
Chỉ cuộc đời đang cùng cực đổi thay
Nên đang đi giữa phố xá hôm nay
Lòng cảm thấy đã là người xa lạ.

Vẫn còn đây phố phường năm bảy ngả
Nhưng đường nào cũng rậm rạp cờ sao
Như cánh rừng trong ác mộng chiêm bao
Đang vây hãm những mảnh đời tăm tối.

Cũng là Xuân đang về trên muôn lối
Nhưng cỏ, cây, hoa, lá chỉ gượng vui
Vẫn là Xuân với mơn man gió thổi
Đón xuân tươi sao héo úa nụ cười?!

Ngồi trầm ngâm rót buồn vào ly cạn
Bạn và tôi ngậm bọt, nuốt rưng rưng
Say? Mặc kệ! Chiều nay mình xả láng
Mai chia tay vĩnh viễn...Biết đâu chừng!?

Men bia đắng. Men đời không vị ngọt
Nên đành lòng: tuổi trẻ đốt thanh xuân!
Bạn và tôi: giữa thời cuộc trầm luân
Như cá chậu, như chim lồng khan tiếng hót.

Hãy cạn ly cho lòng thêm đau xót!
Hãy cười tươi trên sân khấu lộ thiên
Chôn thật sâu, thật lắng nỗi niềm riêng
Vì hài kịch chỉ mới vào vở diễn!

Xuân thanh bình mà sao hồn chinh chiến?!
Giữa Sàigòn ngồi nhắc bóng Xuân xưa
Những mùa Xuân ven suối cạn, rừng thưa
Cùng Xuân thắm của tuổi thơ dấu ái.

Sàigòn ơi! Bây giờ và mãi mãi
Trong đời ta không còn bóng Xuân qua
Xuân đang về mà hồn đã vắng xa
Vì hồng thủy và cuồng lưu hoang tưởng.

Chiều tàn năm bạn cùng tôi ngất ngưỡng
Cạn ly đầy. Nhìn thế sự nhi nhô
Chúc gì đây?! Ngôn từ sao quá gượng
Xuân đến mà chi!? Buồn quá! Thôi!...VÔ!


HUY VĂN
Trước thềm Xuân Mậu Ngọ 1978
( Tặng quý đồng cảnh Nhà 2, Trại 4, HT/TA14:
Phong, Đạt, Hữu, Ngọc, Thành )

Thursday, January 28, 2010

CHỢ TẾT

Dải mây trắng đỏ lòm trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon.
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ,
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ.
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu.
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa
Tia nắng tía nhảy hoài trong ruộng lúa.
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh.
Ðồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ dim hai mất ngủ,
Ðể lắng nghe người khách nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán.
Một thầy khoá gò lưng trên tấm phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhầm dọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo.
Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra.

ĐOÀN VĂN CỪ

Monday, January 25, 2010

NHỮNG NGÔI MỘ PHỦ LÁ CỜ VÀNG

Nếu có ai biết người tác giả bài này thì xin cho gữi một lời cám ơn, vì vẫn còn thương nhớ đến những người đã hy sinh cho Miền Nam chúng ta.

Đến ngày nay, đã hơn 35 năm qua dễ mấy ai còn nhớ đến họ.

Xin thắp một nén nhang cho những bạn bè đã nằm xuống trong cuộc chiến vừa qua.

NHỮNG NGÔI MỘ PHỦ LÁ CỜ VÀNG

Tôi đã thấy những ngôi mộ phủ lá cờ vàng,

Trong nghĩa trang còn tươi màu đất mới,

Quê hương Việt Nam một thời lửa khói,

Người lính quên mình vì lý tưởng tự do.

Các anh hiên ngang chết dưới màu cờ,

Bỏ lại vợ hiền, đàn con thơ dại,

Những vành khăn tang bàng hoàng chít vội,

Nước mắt nào cho đủ tiễn đưa anh?

Có thể anh là người lính độc thân,

Chưa có người yêu, lên đường nhập ngũ,

Ngày mẹ già nhận tin anh báo tử,

Tuổi đời già thêm vì nỗi đớn đau.

Có thể anh vừa mới có người yêu,

Hẹn cưới nhau khi tàn mùa chinh chiến,

Tiền đồn xa chưa một lần về phép,

Anh đã ra đi mãi mãi không về.

Súng đạn vô tình làm lỡ hẹn thề,

Người yêu anh đã có tình yêu mới,

Khi trên mộ anh chưa tàn hương khói,

Trách làm gì!. Thời con gái qua mau.

Hỡi người tử sĩ dưới nấm mồ sâu,

Tiếc thương anh lá cờ vàng ấp ủ,

Nghĩa trang quân đội những ngày nắng gió,

Vòng hoa tang héo úa chết theo người.

Những ngôi mộ phủ lá cờ vàng. Xa rồi,

Xác thân anh đã tan vào cát bụi,

Nhưng lịch sử vẫn còn ghi nhớ mãi,

Miền Nam Việt Nam cuộc chiến đấu hào hùng.

Nguyễn Thị Thanh Dương

( Jan.19-2010)





Friday, January 22, 2010

Trong Thoáng Xuân Viễn Xứ


Dù bể dâu cuốn đời gìông bão
Vẫn nhớ hoài suối tóc vờn bay
Em về giữa không gian huyền ảo
Dáng chiêm bao, kỷ niệm tràn đầỵ

Nhớ Em thuở môi cười, mắt biếc
Tình hồng đan tay dệt ước mơ
Giữa bấp bênh của thời kiếp nạn
Tình đơn sơ mà đẹp không ngờ !

Nắng đọng trên tóc Em lóng lánh
Đường đan tay cây lá trở mình
Ong bướm cũng vì Xuân nâng cánh
Mênh mang hồn ngập bóng hoa xinh.

Thoáng về trong giấc xuân viễn xứ
Là mắt Em man mác sương đơì
Mảnh khảnh bay trên đôi cánh áo
Là mây trơì trầm bổng ngàn khơi

Thầm thì giữa âm vang mộng mị
Là lơì tim nồng ấm, dịu dàng
Hồn mở ngỏ, tình Em khải thị
Trên cành xuân, lộc biếc miên man.

Lung linh kỷ niệm về trong mộng
Xuân lòng vừa nở đoá nghinh tân
Đêm trở giấc riêng mình đối bóng
Nhớ Xuân xa, thoáng hiện mơ gần.

Huy Văn

Wednesday, January 20, 2010

NHỮNG TÌNH KHÚC CHIẾN TRƯỜNG MỘT THỜI TUỔI LÍNH

Cuộc chiến VN kéo dài gần ba mươi năm (1945-1975) nay xem như đã kết thúc nhưng đâu đó dường như vẫn còn những tiếng rên nghẹn ấm ức của những người lính già Miền Nam thua trận còn sống sót sau một cuộc đổi đời. Tất cả như một màn kịch có nhân vật, thời gian và địa điểm, được đạo diễn cho mở màn và kết thúc sân khấu một cách tài tình. Có điều màn kịch được các diễn viên hay nói đúng hơn đó là những người lính trận mà hầu hết đang ở cái tuổi ‘ xuân thì đầy mộng mơ hoa bướm ‘ ghi lại qua những ‘ Tình Khúc ‘ được viết từ mặt trận đang còn nghi ngút khói, bên xác của bạn lẫn thù, đã làm cho những người xem sửng sốt tới rơi lệ vì không mấy ai tin là sự thật.

băng đạn cuối chìm rơi khi qua sông
người lính mệt nhoài nằm ngủ
đầu dựa góc đa
hàng bình vôi trắng răng cười cợt
thép súng khô dầu bụi nước hoen
có phải hòa bình vừa nở một bông hoa
nở giữa tình yêu và tiếng hát .. ’ ’ ’

(Thi Vũ tháng 1/1973 - thơ tình của người lính)

Họ là lính nên ai cũng viết rất chân thật về tâm trạng của mình qua sự lo âu, thương xót, phẩn nộ, bi ai và chán đời trong lúc đang đối mặt với tử thần từng phút từng giây vì tình hình bất ổn tại hậu phương và cảnh chiến tranh loạn lạc hầu như khắp bốn vùng chiến thuật mà người lính trận nào cũng phải đăt chân tới. Tất cả đã trở thành những sự kiện có tính chất lịch sử qua những tiếng khóc thực dù không dám khóc to trước mặt bạn bè đồng đội. Mà dù có khóc to thì cũng chẳng để làm gì vì ai biểu chúng ta sinh ra làm trai hùng nước Việt ?

‘ em mắt nghìn thu xanh cỏ biếc
ta lên rừng thắm ngủ chiêm bao
vòng tay thần thánh xa biền biệt
ta gặp nhau mà vẫn nhớ nhau

em nhớ ta hay ta nhớ em ?
từng đêm lặn lội giữa bưng biền
ta qua Hậu Nghĩa ngày mưa xám
róc vỏ thân chàm ta viết tên

năm tuổi chiến trường xuôi vạn lý
núi sông biết mặt đứa phong trần
yêu em ta bổng thành thi sĩ
thơ lính hào hoa vỗ súng ngâm.. ’ ’ ’

( Chiêm Bao, Thiếu Khanh)

Ðó là cái đỉnh cao của thơ văn do lính viết qua suốt cuộc chiến từ 1960-1975. Cho dù nay phần lớn những tác giả đã không còn nhưng kỷ niệm ngày xưa vẫn cứ ngổn ngang trong tâm trí mọi người, một phần bởi tiếng thơ đầy nước mắt tuy rất cởi mở và ấm áp tình người. Ðó cũng là lý do xuân tết xưa nay luôn được thi nhân ưu ái trong thi ca nhưng với lính thì ngày nào cũng như mọi ngày, vất vã cơ cực tới cái mức không còn ai khổ hơn. Cho nên với họ lấy gì vui để mà xuân hay Tết như người lính Vũ Hoàng qua bài thơ ‘ Mưa Xuân Ngoài Biên Khu ‘ viết tặng Lâm Hảo Dũng :

‘ hãy uống cạn cho lòng vơi nổi nhớ
rượu chất đầy : nón sắt bình đông
người lấy rượu đốt men xuân càng nồng
ta say khướt để quên đời dưới đó
dẫu là xuân hay hạ đông gì cũng thế
bởi quanh năm ta với rượu : đôi bạn già

(tiển thằng bạn vừa mất ta nốc đầy cốc rượu
mừng kẻ nhập đàn ta lại cụng ly ).. ’ ’


(Vũ Hoàng)’


‘ bó gối trong căn hầm tránh đạn
chia nhau một cốc cà phê đen
hít dăm ba điếu quân tiếp vụ
ấy tết cô đơn của lính quèn
rừng vẫn viễn miên buồn ủ rũ
gục đầu tắm đạn pháo thương đau
chim rừng cũng bỏ đàn về núi
để mặc chinh nhân vạn cổ sầu .. ’ ’ ’

(Xuân chiến địa - Phong Nhân Hoài)

Thân phận và hiện hữu là hai mộng ước mà người lính trận nào cũng canh cánh bên lòng. Vì vậy nó đã chắp cánh thành thơ đậu trên đầu súng, đầy ắp trong chiếc ba lô và chan chứa khắp mặt đất. Nhờ vậy mà người lính mới phần nào phôi pha cái ranh giới tử sinh trước mắt. Nổi nhớ của người lính khác hẳn với những tình cảm thừa mứa nơi chốn hậu phương vì ở đây con người có nhiều thời gian để mà yêu hờn ghét giận như Thanh Tâm Tuyền đã viết ‘ ôm em trong tay mà nhớ em những ngày sắp tới ‘ hay cùng lắm thì ‘ vắt mẫu thuốc cuối cùng xuống dòng sông mà lòng phơi trên kè đá ‘.Ngược lại người lính Trần Văn Sơn thì tự mình kể chuyện trong một đêm kích ở Dốc Ðồn Ðền làm cho những người một thời trong cuộc, đọc tới thấy thật là gần gũi thân thương và hối tiếc vì nó đã không còn :

‘ Ðêm nằm nghe vượn hú
ba lô, súng gối đầu
mắt mở trừng không ngủ
rừng tiếp rừng âm u
gió lòn qua kẽ lá
cuốn tròn trong ba lô
rét rừng cơn mệt lã
đồi tiếp đồi bao la

hay :

‘ dẫu nước mắt mọi người có vỗ về hy vọng
ta vẫn cười khan nhìn bạn bè say
có phải không em dù mây vẫn cứ bay
và mai mốt ta có nằm yên trong lòng đất
em hãy giữ trong lòng những điều thành thật
ta đã cho em và chưa vội mang theo
giữa đời ta không phân biệt bạn thù
chuyện sinh tử là chuyện từng giây phút ‘

(Khi xa Bình Tuy)

Phần lớn những bài thơ của lính là loại thơ ‘ Tự Sự ‘ được viết như những ‘ tình khúc chiến trường ‘ vì tự nó có đủ tầm vóc của môn thi ca chứa đựng các phần ngôn ngữ, nhạc điệu, cảm xúc và sự gợi cãm. Sự đồng điệu ngẫu hứng giữa thơ lính và những nhạc khúc được Nhật Trường Trần Thiện Thanh, Dũng Chinh Nguyễn văn Chính.. sáng tạo trước tháng 4-1975, phải chăng đó là tâm cảnh của đời lính, nên ai cũng đều có sự suy nghĩ giống nhau cho dù xa cách muôn trùng. Nhưng yếu tố tạo nên sự đồng cảm đó , trước hết cũng là do tình yêu quê hương của mọi người. Có yêu nước thương dân mọi người mới hy sinh đời mình để chấp nhận tử sinh thua thiệt. Chân thành trong câu chuyện kể đã làm rung cảm một cách sâu sắc tới người đọc, nhất là những em gái hậu phương, vì yêu lính bằng lời, nên đã cất giữ những hình bóng cũ, nhờ vậy mà nó đã trở thành bất tử tới ngày nay, cho dù anh có hiên ngang hay đã trở thành tàn phế :

‘ Rừng thưa dạt gió Hạ L2o
đêm nằm phục kích nhìn sao, nhớ nhà
tháng tư thương nụ hoa cà
hồn quê gởi ngọn mây xa cuối trời

(viết ở căn cứ Tiên Sa)

Phất phơ áo lụa trên cầu
nắng nghiêng cổ tháp ngã màu thời gian
gió xao sóng nước mênh mang
thương em, nhớ mẹ ngập tràn nhánh sông

(chiều qua sông)

Ba mươi tuổi bóng tôi về hối hả
đàn em nhìn như người lạ quây quanh
chân khập khểnh đứng trên bờ đất lở
tuổi ngày xuân theo lá rụng tan tành.. ’ ’ ’

( Trần Vạn Giả , Tình cảnh người về)

Bạch Cư Dị là một trong những nhà thơ cổ Trung Hoa được nổi tiếng khi ông viết ‘ Tỳ Bà Hành ‘ kể lại số phận hẳm hiu của người ca kỷ về chiều trên bến Tầm Dương. Trong xã hội Miền Nam VN thời chinh chiến, số phận của người lính cũng thương đau chất chứa hằng hằng, cho dù là người đã chết hay bị thương tật tàn phế như Phế Binh Trần Quang Thiếu đã ghi lại trong bài thơ ‘ Buổi nhớ núi ‘ :

‘ mới hôm nào dừng chân ven núi
bè có bè có đứa còn vui
anh có anh, chúng ta đời lính
còn lúc này tay nắm môi cười
đêm nằm ngủ cay hơi khói đạn
chân co tìm dấu mất chân xưa
ta bỏ quên bên ngoài biên trận
tặng cho rừng ướt lá thêm mưa
Buổi đến rừng cây cao nhớ núi
gió nhớ đời ta nhớ anh em
giờ một chân, tật nguyền đau dại
mưa móc người, ơn núi nghĩa sông

Ðời ai mà không có bạn nhưng đậm đà thắm thiết hơn vẫn là tình lính sống chết có nhau, chính cái thâm giao huynh đệ chi binh đó , đã làm bén lửa trong hồn những con người mà ai cũng tưởng là chai đá nhưng thật sự có ai sưót mướt trữ tình bằng họ ?


Chợt nhớ xuân nào trên chiến địa,
Tao mày hiu hắt đón xuân chơi

Một thằng lính bộ đời như bỏ
Một đứa nhảy dù cũng tả tơi..

Bốn câu thơ của người lính Phong Nhân Hoài viết cho bạn năm nào, đã làm cho người lính gia tha hương càng thêm trơ trọi, lạc lõng giữa tối ba mươi lạnh lẽo nơi chốn quê người.. Trong quán khách bên đường, ta một mình sóng đôi với ngọn đèn hiu hắt, qua đêm lại một năm buồn. Rượu chưa nhắp mà môi dã muốn cay sè, ngoài trời con chim kỹ niệm vẫn như thiết tha giục giã dù khói lửa đã ngưng trên chiến địa, bạn bè cũng không còn quan hà cạn chén ly bôi , sau những tiếng tỳ bà nhặt khoan nức nỡ. Tan tác, chia xa,giờ đây chúng ta đang lang thang như mây chiều, sau những năm tháng đã giốc ngược đời mình cho quê hương.

‘ Tội nghiệp đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi đã phơi thây

đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẩm lối gầy
Chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
đêm hát vang lừng nơi chiến địa
mộng hoàng hôn khép giữa hư vô .. ’ ’ ’

Thời gian trôi đi tưởng có thể làm vơi phần nào nổi đau của thân phận nhưng ai có thể làm ngơ khi được đọc qua những lời thơ viết của Trần Dzạ Lữ, của Tô Thùy Yên, của Trần Ðức Uyển.. những người lính được sống sót sau chiến trận, đã gởi vào gió đất những tiếng thầm thì, cố níu lại thời gian để mình được sóng với đồng đội vừa gục ngã :

‘ giặc đánh lớn, mùa mưa đã tới
mùa mưa như một trận mưa liền
châu thổ mang mang trời sát nước
hồn chừng hiu hắt nổi không tên
tiếp tế khó, đôi lần phải lục
trên người bạn gục đạn mười viên
di tản khó, sâu giòi lúc nhúc
trong vết thương người bạn nín rên
người chết mấy ngày chưa lấy xác
thây sình, mặt nát lạch mương tanh .. ’ ’ ’

( qua sông )

‘ bốn năm thằng lơ láo
áo quần rách tả tơi
ăn cơm bên xác người
tay bốc tay cầm súng
lòng nhớ mẹ phương tây
ý thương em chạy giặc
xóm làng sầu khôn khuây
ăn xong múc nước ruộng

uống đại cho qua ngày
quê nhà em có biết
chinh chiến thân lưu đày
ăn được là điều may
có khi hai ba ngày
không ăn chẳng có uống
ta nằm với cỏ cây.. ’ ’ ’
(Trần Dzạ Lữ - Bữa cơm ngoài chiến trường)


‘ Tự hỏi về đâu, đâu chả được ?
hãy tìm bên suối ngủ đêm nay
gối đầu lên đá nhìn trăng sáng
rừng núi sương mù ướt chẳng hay.. ’ ’ ’
(Trần Ðức Uyển - Buổi chiều ngồi trên đá)


Cuộc chiến đã khuất dần trong quá khứ hơn một phần tư thế kỷ nhưng dư âm của nó vẫn còn phảng phất khắp nơi nơi, in đậm trên từng khuông mặt héo gầy của những chàng trai Việt một thời ngang dọc, đã bỏ lại chiến trường một phần cơ thể của mẹ ban cho. Nhưng xương máu của chúng ta tới nay cũng vẫn là những đóng góp cao quý trong công cuộc ngăn chống giặc thù bảo vệ quê hương Miền Nam suốt hai mươi năm chinh chiến.

‘ Trên non năm bảy thằng tuổi trẻ
buổi chiều thu uống rượu không cười
ôi người tuổi trẻ sầu trong mắt
đêm trong rừng mộng gởi quê cxa
quê xa ta có em và mẹ
nhớ ao bèo xanh bông tím thiết tha
nhớ người con gái bên hàng xóm
chiều thả thuyền vớt mộng nở hoa.’
(Vũ Hửu Ðinh viết cho Trần Dạ Lữ).

Trên đường mênh mang đi tìm đồng đội cũ khắp miền yêu thương trong ký ức, qua hàng ngàn bài thơ được viết từ chiến trường lửa đạn, nơi chòi canh đồn vắng, trong giao thông hào hay nơi quán lẽ bên đường những lúc người lính tạm dừng chân. Ðời lính gian lao cực khổ nên đâu sá gì chuyện đổi thay của trời đất. Nhưng thật tình mà nói mỗi khi tới mùa mưa làm nhớ không chịu được, dù là mưa bụi lất phất từng hạt nhẹ hay những cơn mưa đầm đìa nước mắt rơi lộp độp trên nón sắt hay những tấm poncho. Bởi vì mỗi mùa mưa là những mùa kỷ niệm buồn vui của tuổi học trò. Thời tao loạn, mấy đứa con trai tới tuổi lớn đã không còn được cắp sách đến trường, đã xa rồi một cuộc tình thương nhớ. Năm 1966, từ chiến trường Bùi Khiết đã viết gửi về em những niềm thương nhớ :

‘Vào đêm em ngủ chưa em ?
Trong mơ có gặp ưu phiền nhiều không ?
Ðèn xanh thành phố xa trông
Hoang vu anh đứng mà lòng chiêm bao
Mưa rừng tiếng lá xôn xao
Tay ôm súng lạnh buồn sao là buồn .. ’ ’ ’
(Thơ Bui Khiết viết trong Ðêm mưa hành quân 1966)

Buồn quá đời lính thú đã kéo chúng ta ra khỏi cuộc gối chăn, tất cả những con đường ngắn dài của tuổi thơ đã trở thành những nẻo đường trong trí nhớ nên chỉ còn biết vui với rừng sâu mưa núi qua cuộc rượu những lúc dừng chân bên quốc lộ đêm nhớ ngày mong :

‘ rượu pha xá xị đầy nón sắt
dăm thằng chuyền nhau uống vòng vòng
đuổi bắt nhau như ngày với tháng
như khoanh tròn tựa một số không ‘
(Linh thú - 1973)

Ðà Lạt mù sương với những đồi thông và muôn ngàn cỏ hoa nỏn nưởng khoe hương sắc, Ban Mê Thuộc, PleiKu, Kon Tum cát bụi mịt mù, những địa danh đến và đi của người lính biên trấn Quân Khu II một thời oanh liệt, những chiến sĩ Lôi Hổ, Biệt Ðộng Quân, Nhảy Dù, Sư Ðoàn 22 và 23 Bộ Binh một thời vẩy vùng ngang dọc, đã được người lính Vũ Hửu Ðịnh ghi lại qua nhiều tình khúc rất nồng nàn. Tiếc thay Anh đã qua đời quá sớm vào năm 1980 khi mới có 34 tuổi (1980-1946) :

‘ phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ thương

em Pleiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
nên mắt em ướt và tóc em ướt
da em mềm như mây chiều trông

xin cám ơn thành phố có em
xin cám ơn một mái tóc mềm
mai xa lắc trên đường biên giới
còn một chut gì để nhớ để quên.. ’ ’ ’
(còn một chút gì để nhớ)

cũng có khi nào anh trở lại
phố xưa đường cũ mùa mưa bay
mưa như gió ướt nên lòng lạnh
gió thổi sầu sương đậu tóc bay
phố không đèn điện con đường lặng
những ánh đèn cây sáng chập chờn
anh gặp em ngồi đang rẽ tóc
mái tóc dài xanh những ngón tay
và anh yêu lấy sầu chẳng nói
mình anh ở lại quán mù mù
tưởng bao năm trước ta là bạn
chỉ nhìn nhau mà cảm được nhau.’

(Cũng có khi nào)

Thật là cảm động biết bao những người lính sau cuộc chiến may mắn được sống sót, ngồi hồi tưởng lại những đêm say cùng bạn trong ‘ Quán Cô Hồn ‘ với bửa tiệc nơi quán xếp bằng xị rượu nồng, miếng khô nai cứng ngắc nhai trong miệng mà ta cứ tưởng như đang nhai cả cuộc đời lận đận đắng cay của kiếp lính, cho nên uống vào như ta uống cả niềm đau sầu cháy long đong. Buồn quá đổi lại càng buồn thêm khi chạnh nhìn cô quán trẻ vừa mới làm quả phụ khi cuộc tình chưa quá một mùa đông. Sau đó bạn ra đi và đã gảy cánh tại Kon Tum năm 1974, được Tiếp Sĩ Trường một phi công ở Phi Ðoàn 218 ghi lại qua bài thơ ‘ Nữa Mảnh Phi Bào ‘ khóc bạn cố Trung Uý Nguyễn Văn Phú :

‘ .. cởi mảnh phi bào anh để lại
trao về quê mẹ một trời xuân
mai đây nếu có ai thương tiếc
xin đốt cho người một nén hương
ngày xưa anh đứng bên song cửa
nhìn áng mây trời ngó cánh bay
giờ đây mây trắng anh xây mộng
lại biến vành tan buổi xum vầy.. ’ ’ ’

(nửa mãnh phi bào)

Hình như mùa xuân đã đến bên thềm gió trong mông mênh cùng tận, như những năm nao, tôi lại âm thầm lâm râm cầu nguyện cho gia đình, bạn bè, đồng đội, đồng bào.. được may mắn an bình trong buổi hổn mang dâu bể..

‘ mai về nẻo ấy chiều sương khói
ta biết tìm đâu bước bạn hiền
vượt thác Mé Kông qua cầu khỉ
Paské héo hắt bóng trăng đơn

mai về quê mẹ qua biên giới
thăm lại Trường Sơn thuở kiếm cung
rừng núi vẫn xanh màu khát vọng
chỉ ta hờn tủi kiếp tha hương
(thì thôi hãy khóc để quên đời ố MG).

Có ai còn nhớ lối xưa để tìm về mà có tim chăng nữa thì cũng chỉ thấy những thành mộ chí hoang vu, cỏ lau xưa hiu quạnh, khiến cho những người lính già cứ ngẩn ngơ hóa bướm dù bàn tay vẫn ấp trên những trang báo ngày nào. Ngoài đêm bây giờ hình như tiếng ngựa vẫn còn lao xao hí hoài những hồi thúc giục, đời vẫn mỡ ra trước mắt như đang gọi hồn người lính đi vào cõi mộng lung muôn trùng.


Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
MƯỜNG GIANG

Saturday, January 16, 2010

THÊM MỘT LẦN SINH NHẬT




Sáng dậy trễ đổ thừa mất ngủ
Ngày lại trôi, lặng lẽ...âm thầm
Nướng cho đã! Cưối tuần: Thứ bảy!
Nằm nghe hồn ray rứt, băn khoăn.

Thả trí cạn theo dòng trăn trở
Treo tâm tư vào nắng ngoài hiên
Gửi trong gió niềm thương, nỗi nhớ
Lại trầm ngâm trong những lụy phiền.

Đón Xuân biếc mà hồn đông chí
Bởi lòng không phương hướng. Chơi vơi!
Bao năm rồi ngày đêm phiền lụy
Thương Xuân mang bĩ ngạn trong đời.

Một giấc tha phương rười rượi. Nhớ!
Mấy cuộc bể dâu thổn thức. Buồn!
Nhìn qua: đời mãi còn nặng nợ
Trông vào: hồn vẫn lạnh mù sương.

Gánh quan san của đời viễn xứ
Mang hành trang mưa nắng một thời
Mong cầu vồng trong mơ hiện thực
Để ấm lòng trong lúc đầy vơi.

Như hôm nay bên ngoài ngập nắng
Mà lòng như khói xám, sương huyền
Dường như có chút gì xa vắng
Khi bên trời nổi gió đông miên.

Tiếng thời gian trên tường rất khẽ
Chậm mà đều, cứ hững hờ qua
Mom mem sáu bó! Đâu còn trẻ!
Biết chúc gì đây!? Sinh Nhật: Ta!

HUY VĂN

Friday, January 1, 2010

Mấy độ xuân về .


Năm Bảy mươi hai mừng xuân mới
Sông Hàn gió lạnh buổi đến trường
Nuôi giấc mộng đời ngoài tay với

Chép vội bài thơ gởi nhớ thương

Năm Bảy mươi ba chào xuân đến
Bạn bè dăm đứa súng cầm tay
Nổi nhớ nào như không bờ bến

Công tác Phan Rang bước từng ngày

Năm Bảy mươi tư xuân xứ lạ

Long Thành phiên gác ngủ không yên

Tiếng xích rền vang trong vội vả

Nhắc nhở lửa binh khắp mọi miền

Năm Bảy mươi lăm chờ xuân tới

Chi Đoàn rời Tân Uyên
Biên Hòa
Quốc lộ Mười ba bom cày xới
Ngày tháng binh yên đã vội qua
Năm nay đã mấy mùa xuân lại

Quê hương xa biệt mấy lân về

Bắc Mỹ lạnh buồn như quan ải

Nhìn tuyết rơi đầy nhớ mải mê


Thiên Chương khóa 8/72

Chi Đoàn 2/15 TK

NGÀY ĐẦU NĂM MỚI

Ngày đầu năm đất trời sao dịu vợi!
Vòng thời gian- lần nữa- lại bắt đầu
Cánh phiêu du mỏi mòn ngoài mấy cõi
Vừa tung mây đã thấy nặng mưa mau.

Mưa phất phơ giữa mùa đông rét mướt
Cho ngày sương nhuộm trắng bóng trời mây
Lòng cũng lạnh theo chập chờn bụi nước
Và mưa ơi! Buồn quá nỗi vơi đầy!

Vài ngụm đắng uống đời ta lang bạt
Nhìn qua hiên: mưa trải hạt lưu ly
Trong lòng dâng những đồng vọng thầm thì
Lời hoài cảm hay hương xưa đọng lắng?

Ngày chậm trôi cho hồn thêm xa vắng
Buồn vu vơ theo mưa bụi, màn sương
Thương một mảnh đời trầm như dấu lặng
Âm thầm trôi theo hiện thực vô thường.

Xưa thân lạc giữa vàng thau thời cuộc
Nay lan man chân bước lạc cuối đời
Vẫn là những chập chùng trong mơ ước
Khi thiên di lạc cánh chốn mù khơi.

Ngày đầu năm trải lòng vào quá khứ
Ngược thời gian quên hiện thực: mưa rơi!
Tìm ảnh ảo của ngọt bùi xưa cũ
Biết đâu chừng còn chút nắng. Thương ơi!

HUY VĂN
( Lebanon, PA 01-01-2010 )